Thi sĩ của gió hoang Cỏ dại

Đồng Đức Bốn và một cách tồn tại trong thơ



I
Nhân bàn về một cuốn tiểu thuyết có ý nhưng đọc không hay , không in được, nhà văn Bùi Ngọc Tấn bữa nọ chợt nói với tôi một nhận xét :
--- Ây viết văn xuôi là cái chuyện tốn chi tiết lắm .
Ôi điều đó thì đúng quá rồi , người không viết văn xuôi cũng đ• hình dung được phần nào ! Song hôm nay tôi vẫn muốn dẫn câu nói kia ra đây , để nhân thể bàn về chi tiết trong thơ .
Tiếp theo Bùi Ngọc Tấn , chúng ta có thể dự đoán là làm thơ thì không vất vả thế , ở đây sức ép của các chi tiết mà các nhà văn xuôi thường phải chịu ,-- sức ép ấy không mạnh , và người ta đỡ lo hơn . Thế nhưng xin đừng ngộ nhận là không quan trọng . Ngược lại – không phải cốt nói một điều giật gân hoặc để trộ đời , khi bảo với nhau : chính vì ít , mà chi tiết trong thơ lại càng quan trọng. Qua các chi tiết đ• có thể thấy ngay diện mạo một con người .
Tôi càng thấy rõ hơn điều này khi đọc Đồng Đức Bốn ( dưới đây viết tắt là Đ Đ B ).
Thử làm một cuộc thống kê những từ ngữ thường xuyên trở đi trở lại trong thơ Bốn .
Khung cảnh thì toàn những rạ rơm, cây cải , hoa dong riềng , bờ tre, bụi dứa , mùa sen vườn cau , bụi tầm xuân, múi bưởi đào, dây tơ hồng mảnh sành , gai rào . Thiên nhiên thì là chớp bể mưa nguồn , bèo dạt mây trôi rồi nắng rét , rồi con gió chen ngang , gió giông b•o tố. Con người thì quẩn quanh với những việc chăn trâu đốt lửa , lên chùa , đón hội , đánh bạc ; hết tìm cái vu vơ họ lại tính chuyện không đâu , mà dù có bán buồn mua vui thì chẳng qua cũng chỉ chín xu đổi lấy một hào .
Còn nhớ có lần một nhà thơ trạc tuổi bọn tôi tự hào khoe là vừa đưa được chi tiết xe hồ lô trộn bê tông vào thơ và ra cái điều vậy là thơ hiện đại lắm . Đưa được một vài chữ Hán lạ hoặc vài tiếng Anh đọc theo âm Việt , người ta thấy thơ mình sang hẳn lên . Học mót được vài thuật ngữ lấy từ các ngành khoa học , hý hửng như tìm được miền đất mới . Theo những cách tính toán kiểu ấy thì Đ Đ B và những người yêu thơ Đ Đ B hẳn xin chịu . Hình như anh đ• làm một cuộc vận động ngược , tức là luôn luôn tìm cách trở lại với những từ ngữ đ• quá quen thuộc của đời sống .
Vả chăng trong cuộc trở lại ấy , điều quan trọng là người ta tìm thấy cái gì .
Tôi muốn nói cái tinh thần của đời sống nó toát ra từ thơ từ nhiều bài thơ của Đ Đ B : Cổ sơ . Cũ kỹ . Quê mùa . Hoang dại .
Từ hồi Thơ mới , nhiều nhà thơ thường trở lại với quá khứ để tìm ở đấy những vẻ đẹp . Không phải chỉ có Nguyễn Tuân mà hàng loạt văn thi sĩ tiền chiến từ Thế Lữ , Lưu Trọng Lư , qua Xuân Diệu , Huy Cận gặp nhau ở một điều là lý tưởng hoá quá khứ . Không nói đâu xa , thử nhìn vào chàng thi sĩ được coi là quê hơn ai hết : Nguyễn Bính . Trong cuộc phiêu lưu kiếm sống giữa thị thành , tác giả Tâm hồn tôi , Mười hai bến nước , Mây Tần … luôn luôn cho người ta thấy rằng thực ra ngày xưa gia đình ông sống nền nếp và phong lưu lắm , bản thân ra dáng con nhà lắm , chẳng qua bây giờ thất cơ lỡ vận nên mới khổ thế . Trong một bài thơ như Thanh đạm , người ta còn được chứng kiến cảnh đối ẩm, với lại những phút cao hứng” cây nguyệt nằm suông m•i , tôi xin đàn người nghe “ . Một bằng chứng nữa là dù được tiếng chân quê hơn đời thế , nhưng thơ Nguyễn Bính nhìn kỹ thấy còn nhiều chữ Hán , ở đó nhan nhản những mộng viễn hành , bức ngọc thư , hàn vi , lữ hành, tha hương , chung tình , đa đoan , tràng giang , giang hồ rồi lại cả vinh quy , ngự uyển , với mỹ nữ , l•nh cung …nữa .
Đ Đ B thì khác . Cái quá khứ kia không phải chỉ là hồi ức thường xuyên trở lại , mà nó là một phần của hiện tại quanh anh . Nhất là nó chẳng có gì rực rỡ là bóng lọng , là cao sang quý phái, tức chẳng có gì là nên thơ . Trăng trong thơ anh là trăng gày trăng cong, sào là sào gẫy , diều là diều đứt dây , con người xưng tôi trong thơ có lúc tự nhủ mình là một kẻ không quê . Dường như anh sẵn sàng nói rằng mình chẳng có gì để khoe với mọi người cả .
Trong nhiều trường hợp , hoang dại ở đây xem như đồng nghĩa với lang thang , mất gốc , không vào khuôn khổ nào , một tình trạng trì trệ không nảy nòi lên được về chất lượng nên đành bò ra ăn lan ra về số lượng . Nó , cái sự hoang dại trọn vẹn ấy có mặt trong thơ Đ Đ B khắp mọi chỗ và làm nên một miền khí hậu riêng có phần không giống ai , dù chẳng ở ai không có .
Chỉ một lần nhà thơ kể chuyện mình Nói chuyện với cỏ dại . Song cả những khi không dùng đến cái từ cụ thể ấy , thì cảm giác hoang huỷ bơ vơ của cỏ dại vẫn trở lại . Nó ở những câu thơ nghe hơi rờn rợn Chân đạp đât đầu đội trời -- ở đâu không có con người thì đi , nó lại ở cả những câu thơ tự nhiên nhi nhiên kiểu như củ khoai nướng để cả chiều thành tro hoặc mẹ ra bới gió chân cầu . Một lần tả cảnh lũ lụt , Đ Đ B viết “ ối mẹ ơi đê vỡ rồi … Mộ cha liệu có lên trời được không “. Đằng sau lối nói lu loa , là lời thú nhận về sự bất lực .
Không hiểu sao tôi đọc những câu tác giả viết như đùa : Ngậm ngùi thịt chó bánh đa –Chiều nay lại thấy bà già xin ăn , hoặc Chợ làng mở dưới gốc đa -- Nhà quê đem mấy con gà bán chơi mà cứ thấy bùi ngùi .
Xa vắng hiu hắt ngang trái bơ vơ , cái không khí ấy bàng bạc trong Đ Đ B , bất kể nông thôn hay thành phố .


II
Trong các thứ tiếng phương Tây, từ culture( mà ngày nay ta dịch gọn là văn hoá ) , trước khi có nghĩa là dạy dỗ mở mang khai hoá giáo hoá , còn có một nghĩa gốc là cày cấy trồng trọt thâm canh làm kỹ một việc gì đó . H•y nhìn vào các thứ cây ăn quả hiện nay . Thoạt đầu đó là những thứ cây dại phải qua bàn tay tác động của con người rồi những đặc tính xấu của chúng mới bị hạn chế những ưu thế của chúng mới được phát huy đầy đủ .
Thế nhưng ở đây có một khía cạnh không những thuộc về khẩu vị , mà còn liên quan đến nhận thức của loài người về khả năng của mình. Sau bao thành công trong việc lai ghép hoặc biến đổi m• di truyền , tạo ra các thứ giống cây mới có nhiều ưu thế , thì con người ở đâu cũng không quên một sự thật -- , ấy là trong khi thua kém các loại cây thuần hoá về nhiều mặt , thì các giống hoa dại quả dại lại có hương vị riêng mà bàn tay nhân tạo không bao giờ làm ra nổi và do đó cái hoang dại kia vẫn đầy sức cám dỗ . Oái oăm là ở chỗ ấy !
Suy rộng ra còn có thể nói dù thay đổi bao nhiêu theo hướng hiện đại thì chất hoang dại vẫn còn một phần nằm m•i trong tâm trí chúng ta , mỗi khi bắt gặp nó , ta không tránh khỏi run rẩy như chợt nhận ra cái bản lai diện mục của mình .
Các nhà nghệ thuật cảm thấy điều này rất rõ . Trong nghệ thuật hội hoạ thế kỷ XX có hẳn những trường phái khai thác vào cái hoang dại nguyên sơ của thế giới , lấy nó đối lập với những tìm tòi duy lý , người ta mệnh danh những trường phái này là hoang d• , ngây thơ …
Tuy không phổ biến song ở ta một số người đ• có ý đi vào cái hoang dại đó . Chỉ có điều nhà văn VN vốn không mạnh về bề dày văn hoá , nên đi vào hoang dại trước tiên không do tìm tòi lâu dài , mà như là ngẫu nhiên bắt gặp : Không thể đến với sách vở hàn lâm thì trở về với nó . Chợt nhận ra từ lâu nó đ• thuộc về mình mà không hay biết. Nhưng nay nó là cả một xu thế hiện đại thì tội gì không theo . Nếu khôn ra gán thêm cho nó một ít màu sắc lý luận thì càng oai .
Phải nhận , giữa đám người trở về nguồn bất đắc dĩ đó , hoang dại của Đ Đ B đậm đà hơn rõ nét hơn . Hoá ra hoang dại cũng muôn màu muôn vẻ . Nó cũng thuộc về thời đại với nghĩa tuỳ từng thời gian mà nó lại có những sắc thái mới , và do đó đủ sức làm nên những phong cách .

III
Đ Đ B thường công khai nói rõ mối quan hệ của mình với Nguyễn Huy Thiệp ( NHT ) . Người ta được biết rằng NHT không chỉ thường xuyên đứng ra giới thiệu Đ Đ B , mà sự thực là đ• sớm có mặt trong phòng thí nghiệm sáng tạo của người bạn thơ . Không khó khăn gì cũng có thể dự đoán , ở đây có một lý do sâu xa , ấy là giữa chất văn của Thiệp và chất thơ của Bốn có sự gần gũi .
Khi NHT mới xuất hiện tức là vào năm 1988 , người viết bài này đ• sớm cảm thấy trong văn của tác giả Tướng về hưu có một thứ chất mới , tức cái chất kỳ dị . Nếu như văn của nhiều người khác là một thứ văn học trò ngoan ngo•n lễ phép , thì sắc thái thẩm mỹ ở Thiệp là phá cách , là phi quy phạm , giống như một thứ động vật hoang d• hoặc một thứ cây chưa được thuần hoá chưa được trồng trong vườn nhà .
Nếu đẩy sự liên tưởng đi xa , người ta có thể nghĩ nó là sự kết hợp đúng hơn là sự lang chạ của những yếu tố khác hẳn nhau , đại thể cũng na ná như việc Tôn Ngộ Không trong truyện Tây du ra đời từ một hòn đá nơi các nàng tiên thường đến tắm ( xem bài Tưởng tượng về Nguyễn Huy Thiệp của chúng tôi , in trong Những kiếp hoa dại )
Hôm nay , tôi lại muốn nói : Không ai giống hẳn ai , song trong những người gần nhất với Thiệp , có Bốn .
Nói cho đúng ra Thiệp quá độc đáo không ai theo được . Trong văn hoá VN , cái hoang dại hiện ra thường mang sắc thái ngây thơ , mờ mờ nhạt nhạt . Nó bâng quơ , nó có vẻ gặp đâu hay đấy . Đây là một bài thơ của Nguyễn Bính , bài Bên sông ,in trong tập Tâm hồn tôi
Có hai em bé học trò
Xem con kiến gió đi đò lá tre
Nứa trôi từng một thôi bè
Nắng sang b•i cát bên kia có chiều
Thoáng như một lớp phù kiều
Chim đàn nối cánh bay vèo ngang sông
Thuyền buôn đ• mấy ngày ròng
Nằm suông , lái chửa ăn xong giá hàng
Đ Đ B cũng vậy . Bốn không có lối khai thác cái chất hoang dại kia theo cái kiểu dữ rằn oan nghiệt như NHT . Anh làm mềm nó đi một chút . Mang cho nó một bộ mặt ngơ ngác .Tức cũng là làm cho nó gần gũi thêm với đời thường. Được cái , vẻ hoang dại ở Bốn là hoang dại thứ thiệt , chứ không cố làm ra vẻ vậy , và là nước cốt chứ không tráng hàng qua loa hoặc pha phách như ở một vài nhà thơ khác .
Giữa một nền thơ phát triển đến mức lạm phát , người ta chỉ tồn tại được khi có một giọng thơ riêng để khỏi lẫn vào tiếng ồn đang gây nhiễu chung quanh . Nhiều người hiểu thế, cũng như họ hiểu sự hoang dại có thể làm nên một ưu thế thật mạnh . Thế nhưng họ chỉ tìm tòi một dạo rồi bỏ . Còn Đ Đ B , một lần tìm thấy là anh khơi m•i vào cái mạch ấy để tạo ra một nguồn thơ riêng . Anh đ• đi tới cùng trên con đường của mình , đến mức , gần đây , người ta cảm thấy thơ anh đơn điệu và dừng lại . Nhưng dù có thế thì cũng chẳng sao . Cũng như nay , nói dại , NHT có viết dở đi nữa , thì cũng chẳng sao. Những gì mà các anh viết hôm qua đ• đủ làm nên một tác giả .


IV
Bây giờ ta h•y cùng nhìn kỹ vào cái giọng thơ lục bát mà Đ Đ B đ• hình thành riêng cho mình. Lịch sử văn học đ• biết tới những bậc bậc thày kỳ tài còn in dấu trên thể thơ này . Trong sự đa dạng của một thiên truyện viết bằng văn xuôi như Truyện Kiều , lục bát của Nguyễn Du thật đ• hiện ra muôn hồng nghìn tía , nhưng cảm tưởng chung là đến với ông , lục bát đ• như một cái gì được thuần hoá . Tuy thỉnh thoảng cũng xen vào những câu lạ kiểu như vó câu khấp khểnh bánh xe gập ghềnh , song chủ yếu lục bát trong Truyện Kiều là thuần thục rành rẽ và phải nhận ở đó cả người mê sự sang trọng của thơ Đường lẫn người mê vẻ mộc mạc của ca dao đều được thoả m•n .
Duyên dáng tự nhiên là lục bát của Tản Đà .
Cổ kính chắc chắn đường bệ đấy là lục bát của Huy Cận trong Đẹp xưa , và rộng ra là trong Lửa thiêng .
Tuy nhiên từ sau Tản Đà , người cống hiến nhiều nhất cho lục bát là Nguyễn Bính . Trong các tập thơ của mình , Nguyễn Bính mang lại cho lục bát khi thì một vẻ ỡm ờ , khi thì đoan trang , và bao giờ cũng tràn đầy nhạc điệu . Cả trong những câu thơ như buột miệng mà nói ra ( Em van anh đấy anh đừng yêu em ) , lẫn những câu đùa đầy dụng công ( Cánh buồm nâu , cánh buồm nâu, cánh buồm ) , người ta vẫn thấy một cái gì như là dẻo mồm tức quá khéo , dù đ• khéo đến mức tự nhiên .
Cái lối tạo ra lục bát một cách trúc trắc , từng đôi câu sáu tám không vang lên một cách nhịp nhàng mà có vẻ lập cập khó khăn -- cái lối ấy chỉ mới có từ hồi sau 1945 . Nguyễn Đình Thi và nhiều người khác đ• tham gia vào quá trình này , ở đây tôi chỉ dẫn ra một người bạn cùng tuổi là Xuân Quỳnh . Vốn rất tự nhiên trong việc bẻ vần ghép chữ , mà không hiểu sao , trong một đôi khi sử dụng lục bát , Quỳnh vẫn cứ làm cho nó ngang ngang , ví dụ bài Về những thói quen của chị mở đầu bằng mấy câu như sau “ Con sông quen chảy xuôi dòng – Mùa mưa nước lũ quen dâng từ nguồn – Bên bồi thì cứ bồi luôn – Còn bên lở vẫn lở thường quanh năm “ . Ôi lục bát gì mà khô cứng thế này ! Sau tôi mới hiểu chính là Xuân Quỳnh đ• cố ý làm thế để tránh đi cái nhịp nhàng đều đều đ• nhàm chán của một thể thơ quá phổ biến .
Trở lại với Đ ĐB , tôi cho rằng phải liều mạng lắm người ta mới dám viết những câu ngang phè đại loại :
Rét lòng khát ngọn lửa nhen
Mà áo đỏ áo đỏ em đâu rồi ( VTN nhấn mạnh )
Thế nhưng đó chính là những câu thơ làm cho người đọc không đọc lục bát theo kiểu trôi tuồn tuột , mà phải dừng lại ngẫm nghĩ , cũng tức là nhà thơ đạt được cái hiệu quả mà người cầm bút nào cũng mong muốn .
Dễ dàng nhận xét là nhiều bài thơ Đ Đ B không có được cái sự liền mạch , mà hình như do từng mảng ghép lại , mỗi mảng là một đôi sáu tám hoặc hai đôi liền . Viết cái gì thì cũng vậy mà làm thơ càng dễ vậy , kỵ nhất là cái lối câu nọ gọi câu kia , đưa đẩy chuyển tiếp kết quả thành một thứ thuận miệng giống như người quen chân đi m•i , nhiều khi vẫn đi đấy mà không biết mình đi đâu . Trong một thể như lục bát điều đó càng dễ xảy ra . Nó ma mị , nó quyến rũ . Không có kết cấu , nó qúa tự do nhưng cũng chứa đầy cạm bẫy trong cái tự do đó . Đ Đ B đ• biết tránh , hoặc có duyên mà sớm ngộ thấy cái sự mòn mỏi của nó nên tránh thoát . Lục bát ở Đ Đ B không nhịp nhàng nối tiếp mà cứ như cái gì ngắc lại nghèn nghẹn . Thứ lục bát đó góp thêm vào cái cảm giác quê mùa hoang dại chung của thơ Đ Đ B mà đoạn trên đ• nói . Nói cho to tát cũng tức là ở nhà thơ này có một sự quyến quyện giữa nội dung và hình thức , hoặc nói theo chữ nghĩa đương thời tức là sự nhất quán của thi pháp .


V
Thuở nhỏ tôi sống ở làng Thuỵ ( tên đầy đủ là Thuỵ Khuê ) , một vùng ngoại ô phía bắc Hà Nội , đàn ông thì đi làm Nhà da, Máy giặt, Bia Ô mền ( Bia Hà Nội hiện nay ) hoặc công nhân Xe điện , còn đàn bà chuyên hàng quà, bán rong các phố , quà rong ở đây cụ thể là các loại xôi , ngoài ra là sắn luộc khoai luộc v..v...
Khoai luộc của làng Thuỵ thì ngon lắm .
Những năm năm mươi sáu mươi của thế kỷ trước , phố phường Hà Nội chưa đầy bụi và ngạt khói xe máy như bây giờ . Khoai luộc chảy mật đặt trên mẹt của dân làng Thuỵ nhởn nhơ gánh bán rong các phố không ai cho là bụi bẩn , nên ai trông cũng thèm , cả các cô môi son má phấn Hàng Ngang Hàng Đào cũng gọi mua .
Nhưng ngoài món khoai cổ điển đó , với cái gốc con nhà nghèo , tôi nhớ một món khoai lạ của các bà các cô làng Thuỵ . Khoai luộc mới sôi thì đ• vớt ra và đổ vào nước lạnh , bởi vậy chỉ vừa chín tới và cắn vào còn sồn sột , nên gọi là khoai sượng . Cố nhiên là chỉ những thứ khoai còn nhỏ , những củ nhách củ kẹ , bán nắm bán mớ , mới được dùng để làm loại quà rẻ tiền này . Song có lẽ chính vì như thế nó lại có cái vẻ ngọt riêng , ngai ngái ngầy ngậy gần với khoai sống .
Không hiểu sao , khi đọc thơ ĐĐB tôi lại hay nhớ tới thứ khoai sượng nay đ• tuyệt chủng kia .
Nhưng tôi cho rằng sẽ làm nghèo Đ Đ B đi nhiều nếu xem việc anh khai thác yếu tố hoang dại chỉ có ý nghĩa một biện pháp nghệ thuật , một cách ranh ma đổi mốt nhằm câu khách , mà không thấy rằng cái chính ở đây là một cách nhìn nhận , một cách bắt lấy cái thần của đời sống .
Thử nhớ lại hai bài thơ không rạ rơm chút nào của Bốn , bài Chiều mưa trên phố Huế và bài Xích lô đường Bà Triệu . Trong con mắt người làm thơ , cảnh phố Huế nào có khác chi chợ quê , cũng hàng thì bán đứng bán ngồi chen nhau , xe cúp dàn hàng ngang mà đi đấy , nhưng vẻ hiện đại không che nổi áo rách . Giữa đường Bà Triệu ồn ào , nhà thơ nhạy cảm vẫn thấy toát lên một chút gì đó tịch mịch xa vắng . Bởi vậy , cái chuyện lạc giữa bơ vơ là không tránh khỏi và cảm tưởng cuối cùng được cô kết lại bằng cái câu rất sái : Xong rồi chả biết đi đâu – Xích lô Bà Triệu ra cầu Chương Dương .
Thế nghĩa là gì ? Dù đ• chuyển sang thời hiện đại , song cảnh tượng ở đây chỉ là một biến thể của những chăn trâu đốt lửa với lại bắt gió chân cầu đ• nói ở trên . Chua xót . Bế tác . Bơ vơ . Nhưng là có thật .


VI
Sau khi để cho đời sống nó nhập vào hồn mình , và phác hoạ khuôn mặt nó theo cách mình hiểu , diễn tả nó theo như cái cách mà mình vẫn nhìn , nhà thơ nhà văn nào cũng không tránh khỏi tự bộc lộ , tức đưa ra hình ảnh riêng , cho người đọc tiếp xúc với một kiểu người kiểu suy nghĩ riêng , là chính tác giả .
ở đây không chỉ có phong cách cá nhân mà còn có những nét những khía cạnh tạm gọi là phong cách thời đại . Ví dụ theo sự quan sát của tôi , có thể tạm xếp loại mấy kiểu tâm thế thi sĩ hiện thời : 1) thi sĩ giáo huấn 2) thi sĩ hùng ca 3) thi sĩ ngây thơ như trẻ nhỏ , biết nhìn ra chất thơ ở chỗ người đời bỏ qua 4) thi sĩ hóm hỉnh 5) thi sĩ nhìn thấu lẽ đời vv.. và vv..
Tôi không dám nghĩ rằng những cái tên trên đây đ• chính xác , song chắc là trong chân dung các thi sĩ hợp thời không ít thì nhiều có những cái đó . Mà Đ Đ B thì không rõ vô tình hay cố ý, nhưng đúng là cứ trật ra khỏi những cái khuôn khổ mà nhiều người đ• tự nguyện chấp nhận và góp phần hoàn chỉnh , lấy đó để làm giới hạn cho mình . Điều thấy rõ nhất : cái tôi đi về trong thơ Bốn là một cái tôi với bao hậm hụi bất lực . Dường như không sao tìm được sự cân bằng trong tâm lý . Chẳng biết cư xử ra thế nào cho phải . Thấy chung quanh tầm thường vớ vẩn , mà mình thì cũng chẳng hơn gì , lại có lỗi ở chỗ không biết làm sao tác động tới nó , khiến cho nó trở nên tốt hơn vừa ý mình hơn . Giữa vô vàn những lo toan -- lo nghèo lo đói lo khổ lo không được hiện đại , lại thêm còn cái lo nữa , lo lạc lõng , không ai nghe mình . Mấy chữ mồ côi thường xuất hiện trong thơ Bốn . Trăng mồ côi . B•o mồ côi .Cây mồ côi . Mà con người đến chết vẫn có thể tiếp tục mồ côi ( Trở về với mẹ ta thôi- Lỡ mai chết lại mồ côi dưới mồ ). Tâm lý mồ côi đó là gì nếu không phải là tình trạng người ta mất đi những chỗ dựa chắc chắn về tinh thần , không có cái để tin yêu và kính trọng ?!
Trước một đời sống còn nhiều hoang dại ngớ ngẩn , con người trong thơ Đ Đ B biết tìm cho mình một thái độ tạm gọi là vừa phải : không huớ lên hớn hở một cách trẻ con , mà cũng không lảng đời kệ đời ; không tự nhấc mình vượt lên trên hoàn cảnh rồi chửi bới tùm lum , hoặc cười cợt vô trách nhiệm , mà cũng không làm bộ làm tịch , ra cái điều đang mải mê với những triết lý sâu sắc . Thơ chỉ còn là một lời thú nhận , hoặc nói đầy đủ hơn như Pablo Néruda đ• dùng làm đầu đề một cuốn sách : “ Tôi thú nhận là tôi đ• sống “


VII
Rút lại thì tôi muốn gọi giọng thơ Đ Đ B là một giọng thơ dân gian hiện đại .
Dân gian là một khái niệm rất rộng . Là một cảm giác dang dở về đời sống . Là sự lạc quan tất yếu thành ra một thứ bản năng. Lại cũng là một nỗi buồn xa vắng khôn nguôi . Là sự hoà quyện giữa hy vọng và thất vọng . Là lòng ham sống là ý chí vươn lên đấu tranh cho đời sống ngày một tốt đẹp . Mà lại cũng là một sự hư vô buông xuôi -- , con người thì bao giờ cũng thế thôi , quá bận tâm đến họ làm gì cho mệt . Dân gian là trong sáng vô tư , nhưng cũng là hư hỏng đàng điếm tuỳ tiện “ chí phèo “ . ..Đấy đại khái dân gian có lắm sắc thái như vậy , có thể có nhiều người rất khác nhau , nhưng họ vẫn được gọi chung là có chất dân gian .
Riêng về Đ Đ B , tôi muốn lưu ý là trong cái vẻ đều đều gióng một của mình , anh vẫn là một tính cách pha trộn . Trong giọng thơ này , cái già cỗi mệt mỏi tồn tại ngay bên cạnh cái trẻ trung , cái ham muốn bồng bột nẩy nở đấy mà cũng tàn lụi ngay đấy , để rút lại nhường chỗ cho cái ngu ngơ bất lực bao trùm .Vừa chấp nhận đầu hàng , bỏ qua tất cả , mà lại vừa tham lam càm quắp , cò kè tính toán , vơ véo nhặt nhạnh , nâng niu lấy từng niềm vui nho nhỏ .
Bởi cho rằng giữa một thời buổi khó khăn như thời chúng ta đang sống , một thái độ có vẻ rất mềm rất hoạt như thế là cách tốt nhất để con người tự vệ , nên thỉnh thoảng rối r•i tôi thường vẫn tìm đến với thơ ĐĐB . Gạt đi cái phần ngang ngược thô thiển nó là điều không thể khác được với một con người có hoàn cảnh cụ thể như tác giả , thơ Bốn đôi khi vẫn là cái cớ giúp tôi tìm thêm lòng ham sống lẫn thấm thía đầy đủ cả cái vô nghĩa của đời sống .
Làm đất đất phải nở hoa – Làm tôi, buồn cái người ta vẫn buồn – , với câu thơ bâng quơ đó , chính Đ Đ B đ• thú nhận chẳng qua anh cũng như mọi người , mà chẳng biết làm thế nào .
Trong khi khai phá và trình bày nỗi niềm hoang dại nơi mình , người thi sĩ đ• giúp chúng ta tìm thấy một phần cái ta sẵn có mà lâu nay chót quên l•ng và mặc dầu vẫn lợi dụng nó khai thác nó song hầu như lại chưa bao giờ nghiêm túc suy nghĩ về nó . Cuộc đời thì ngắn và mỗi chúng ta thì bơ vơ lắm .

Tháng 7-2003
Tháng 7-2005




SỐ TRUY CẬP online