Nguyễn Bính

Vài nét tiểu sử
Nguyễn Bính (1918-1966) nổi tiếng với các tập thơ Tâm hồn tôi (1940), Lỡ bước sang ngang (1940), Mây tần (1942); sau Cách mạng có Đêm sao sáng (1962).
Cánh bướm và đóa hướng dương
Một nét tính cách thi sĩ
ở con người Nguyễn Bính
Như một mô-típ chủ đạo, lại như một ám ảnh, hình ảnh con bướm trở đi trở lại trong thơ Nguyễn Bính có lẽ là đậm đà hơn bất cứ hình ảnh nào khác. Bướm và hoa có mặt bất cứ nơi nào nhà thơ nói đến tình ái. Câu chuyện kỷ niệm của đôi bạn học trò trường huyện ngày xưa sẽ mất đi vẻ hư ảo, nếu như thiếu sự điểm xuyết của cánh bướm. Bướm quấn quýt bên cô hàng xóm; bướm chập chờn bay trên luống cải để một cô bạn khác sang nhà đuổi bắt. Bướm ngây thơ, bướm xinh đẹp, bướm phong tình và ham chơi nữa, bướm có quá nhiều nét giống người đến mức người làm thơ tưởng như nguyên lai mình vốn là kiếp bướm chỉ nhớ ra mà mới đây thôi, mới trở lại kiếp người!
Chả trách chi, theo Bùi Hạnh Cẩn cũng như Hoàng Tấn, một trong những dự định đến rất sớm với Nguyễn Bính là gom góp những bài thơ đã viết của mình, làm thành một tập thơ riêng, tập thơ mang tên Bướm.
Nhưng phàm đã có tiếp nhận Nho giáo, có học qua sách vở thánh hiền, người ta đều biết rằng hình ảnh con bướm vốn không được kẻ sĩ xưa nay xem trọng. Nhà nho thiên về duy lý, nếu không tự ví mình như chim phượng hoặc cây tùng cây bách, thì cũng tự xem mình như cây trúc cứng cỏi, cho đến cả chim sẻ, họ cũng coi thường, nói chi đến cánh bướm.
Vậy tại sao Nguyễn Bính, một kẻ có theo đòi bút nghiên từ lúc nhỏ, từng có những bài dịch thơ Đường khá hay, người có thể nghĩ thơ bằng chữ Hán nữa, tại sao Nguyễn Bính đó lại để cho hình ảnh con bướm lui tới quá nhiều trong thơ mình!?
Mọi chuyện sẽ chỉ trở nên giản dị nếu chúng ta chấp nhận một cách hiểu tương đối cởi mở về con người nhà thơ: cũng như phần lớn chúng ta, tác giả Lỡ bước sang ngang là một con người của tình cảm, của những ý muốn bâng quơ hơn là của lý trí.
ở ông, sự khao khát được tự do, được sống theo ý mình, đôi khi đi gần sát tới sự buông thả. Ông thèm đi, thèm biết, thèm có mặt ở mọi nơi, thèm tận hưởng vị ngọt, hơi ấm mọi hương hoa của đời. Và chắc chắn, ông không phải một tính cách cứng cỏi, người ta không thể đòi hỏi ở ông một sự nhất trí thường trực.
Với vốn văn hóa sẵn có, ông thừa biết nói nhiều đến cánh bướm là không được đàng hoàng, là thiếu khí cốt, là nhảm (nhảm với nghĩa ông dùng trong câu thơ dịch Quân cờ gõ nhảm làm rơi hoa đèn). Song con người hồn nhiên cứ kéo ông đi, rồi Nguyễn Bính sẵn sàng cười trừ với mọi người và với chính mình: thì tôi thích thế đấy, kệ tôi sống thế nào thì sống, cốt tôi nói điều tử tế và có người nghe là được! Trong cái vẻ bề ngoài quê quê lại lôm loam thô lỗ (chữ của Tô Hoài), Nguyễn Bính thật ra đã có cốt cách của một nghệ sĩ hiện đại, bắt đầu từ một sự bất chấp ngang ngược ấy.
Thói quen thường trực
Sự bất định, thực ra không phải là độc quyền của riêng ai. "Đa đoan vó ngựa, chung tình bánh xe" - người đời vốn vậy, chẳng qua ở đám thi sĩ, cái thói bất định ấy bộc lộ rõ rệt và thường trực hơn, nên người ta thích xem đây như là một đặc tính nghề nghiệp của họ, rồi khi cần, mỗi người lại tìm cách giấu giấu diếm diếm và cố chứng minh rằng bản thân mình và giới mình không phải như vậy. Riêng với Nguyễn Bính thì mọi chuyện đơn giản hơn mà cũng sòng phẳng hơn. Đọc kỹ thơ ông, có thể hình dung ông cũng thường muốn hướng đời mình tới một cái đích nào đó, theo một khuôn khổ nào đó, song không được, rút cục đành tự nhủ rằng quen mất nết đi rồi, cứ thế mà "diễn".
Như trong chuyện tình yêu. Có những nhà thơ cả đời chỉ phụng thờ một nàng thơ nào đó. Tác giả Lỡ bước sang ngang thì không, gặp đâu yêu đấy và lần nào cũng say đắm. Chỉ có điều thú vị là tất cả việc đó được Nguyễn Bính coi là đương nhiên, ông công khai bộc lộ thói đa tình của mình và sẵn sàng làm thơ để đánh dấu từng mối tình lẻ mà mình đã theo đuổi. Những người có quen biết riêng Nguyễn Bính đây đó vẫn kể: Cô Nhi trong bài Hoa với rượu vốn tên là Diễm. Hai chữ Tú Uyên - nhân vật được Nguyễn Bính dành cho cả tập thơ Người con gái ở lầu hoa - được tạo ra từ tên thật của một người con gái tên là Tuyên. Nàng Oanh thì lại không hề được "ngụy trang", nghĩa là thi sĩ cứ thế bê nguyên xi tên thật của một cô gái ngoài đời vào thơ, khiến cho người này mãi về sau còn bực bội. Tóm lại, thơ tình chính là lĩnh vực Nguyễn Bính bộc lộ ra tất cả sự nhởn nhơ dông dài vốn có, và việc nhà thơ tìm thấy hình ảnh của mình trong những cánh bướm là có nguyên cớ sâu xa của nó.
Bên cạnh tình yêu là những quyết định quan trọng liên quan đến cuộc sống, và ở đây nữa, Nguyễn Bính vẫn cho thấy sự tùy tiện, gặp đâu hay đấy của mình. Cũng như nhiều đấng nam nhi có học qua mấy chữ thánh hiền, Nguyễn Bính không quên mơ tới sự nghiệp của cả cuộc đời, và sự thực là con người lý tưởng văn hay chữ tốt (lên đến tuyệt đỉnh là bảng nhãn, thám hoa thậm chí trạng nguyên, mà nhất là trạng nguyên), đã thường xuyên xuất hiện trong thơ như một ám ảnh. Nhưng làm thế nào để đạt tới cái sự nghiệp ấy thì Nguyễn Bính gần như không biết. Một nhà nghiên cứu đã có lý khi so sánh hình ảnh của sự ra đi trong thơ ba người bạn là Thâm Tâm, Trần Huyền Trân, Nguyễn Bính để rồi kết luận trong thơ Nguyễn Bính, chàng lãng tử "đi để mà đi" và rất sớm mặc cảm về sự lỡ bước sang ngang của chính mình. Nhân đấy cũng xin nói qua về một vận động lớn trong tâm trí Nguyễn Bính là trở về với chân quê. Thấy ý nghĩa của việc này quá lớn, đây đó đã có người đẩy quá lên mà bảo rằng Nguyễn Bính làm việc này với một "nhận thức sâu sắc", nhằm công khai chống lại một xu thế đang trở thành thời thượng trong văn giới lúc bấy giờ là chạy theo Âu hóa. Nhưng theo chúng tôi ở đây có thể nghĩ khác. Nguyễn Bính không thuộc dạng người hành động kiên nghị suy tính trong từng bước đi và khi đã suy tính kỹ thì cắn răng đi theo con đường đã chọn. Không, thiên nhiên ban cho chúng ta một thi sĩ hồn nhiên và nông nổi hơn nhiều, gặp đâu hay đấy, thế nào cũng được, bởi vậy, thấy cái gì hay hay ông cũng làm theo, song đến lúc nào đó ông cũng dễ dàng rẽ sang đường khác, nếu gặp những thứ "hay hay" khác. Khi mới vào nghề, do một trực giác tinh nhạy nào đó mách bảo, ông đã viết nên một loạt thơ chân quê như các bài Mưa xuân, Thời trước, Nhớ, Qua nhà... Rồi cái mô-típ chân quê này còn trở đi trở lại mãi trong thơ Nguyễn Bính nhưng càng ngày sự xuất hiện của nó càng trở về giống như câu chuyện mà một người vui miệng và thấy có người nghe thì kể, hơn là một việc làm xuất phát từ "nhận thức sâu sắc", như cách nói của chúng ta bây giờ. Nhất là về sau, khi sự dan díu với kinh thành đã mệt mỏi, đến bản thân những nỗi bất hạnh riêng tư còn vô phương cứu chữa, nhà thơ chỉ mượn chuyện nhớ đến quê hương cũ để xót xa cho số phận, chứ còn lòng dạ nào mà nghĩ đến tuyên ngôn này xu thế nọ! Đấy, sự thực cái tâm lý về chân quê ở Nguyễn Bính đã diễn biến như vậy. Nói như Hoài Thanh trong Thi nhân Việt Nam, ông chỉ không quên người nhà quê trong mình, chứ đâu có để công đi tìm người nhà quê ấy. Tuy nhiên tất cả những việc này không làm giảm ý nghĩa của cái sắc thái dân tộc mà thơ ông vốn có.
Sự chung thủy duy nhất
Có một sự thực lâu nay nhiều người còn ngại nói ra mỗi khi nhớ tới Nguyễn Bính, ấy là nhìn suốt cuộc đời 48 năm trôi nổi của ông, phải công nhận ông là một người bất hạnh. Sau khi kể rằng lúc nào Nguyễn Bính cũng ôm khư khư bên mình một hộp bích quy toàn những thư tình "tờ trắng, tờ xanh, vết tay mồ hôi về vệt", Tô Hoài kể "chưa thấy anh một lần nào lấy được vợ". Nguyệt Hồ, bạn cố tri một hồi của Nguyễn Bính cũng bảo chưa bao giờ bạn mình được sống đúng nghĩa một tối tân hôn. ở Hà Nội đã bí, tưởng làm một chuyến "hành phương nam" là có thể đổi đời, có ngờ đâu, ở trong ấy, Nguyễn Bính cũng nhiều lúc rơi vào tình cảnh cơ cực mà nghe một số bạn bè ông kể lại, người ta phải rớt nước mắt. Những bước đoạn trường ấy, do nỗi đa đoan của cuộc đời xô đẩy cũng có, mà do nhà thơ tự chuốc vào mình cũng có. Dẫu sao, ở đây không nên xét mọi chuyện dưới góc độ đạo đức thông thường mà cũng không có chỗ để bàn xem ai khôn, ai dại. Người ta là thế, những cuộc đời thông thường là thế. Bởi trước tiên, không ai có thể dự liệu mọi bề cho chính đời mình, và lùi ra xa một chút mà nhìn thì đời chúng ta đi theo những kịch bản thế nào, là những diễn viên, chúng ta làm sao hay biết?!
Thế nhưng để bù lại, Nguyễn Bính có thơ bạn bầu. Giống như đóa sen thơm ngát, thơ ông vượt lên trên mọi đa đoan chìm nổi của chính đời ông, để vĩnh viễn tỏa hương. Đời ông càng khổ thì thơ ông càng hay. Có lẽ, chính Nguyễn Bính cũng biết như vậy, nên lạ một điều là trong cuộc đời bất định và dông dài của mình, ông có một sự chung tình đặc biệt là chung tình với thơ. ở chỗ này, cái câu người con trai tự nói về mình "Lòng anh như hoa hướng dương. Trăm nghìn đổ lại một phương mặt trời" không phải là một lời nói ngoa, đến lượt mình sự chung tình ấy, đóa hướng dương ấy lại làm nên sự trường tồn của tên tuổi ông, và nó sẽ trở thành hình ảnh tượng trưng cho đời ông, chứ không phải cánh bướm nhởn nhơ mà ông thường nhắc tới.


Thế giới hôm qua
Một huyền thoại về nông thôn Việt Nam
qua thơ Nguyễn Bính và lý do dẫn đến
sự ra đời của huyền thoại ấy
Vào thời điểm Nguyễn Bính lớn lên và bắt đầu làm thơ - tức là những năm 30 của thế kỷ XX - quá trình Âu hóa của xã hội Việt Nam đã qua được một chặng đường khá dài. Chung quanh bộ máy cai trị của thực dân đã thấy hình thành nhiều trung tâm hành chính và buôn bán lớn. Một tầng lớp công chức mới ra đời mà với họ cách sống tối rượu sâm banh sáng sữa bò trở thành tự nhiên, tưởng như bao đời vốn vậy. Ngày một quen hơi bén tiếng với văn minh phương Tây, người ta dễ dàng cảm thấy mình gần với các đô thị tư bản hơn là các phố chợ phong kiến. Và chính lúc đó, nhiều người bắt đầu nhớ nhung tới cái cội nguồn nông thôn hôm qua của mình. Không gì khác, giọng thơ Nguyễn Bính được yêu mến, nhiều bài thơ của ông được người đương thời thuộc lòng, bởi nó đáp ứng được sự lưu luyến thường trực của những cư dân thành thị với cội rễ hôm qua của họ. Có thể nói rõ sự ưu ái của dư luận đối với một số bài thơ của Nguyễn Bính trong Lỡ bước sang ngang, Mây tần, Mười hai bến nước... đã đánh dấu sự trở về của một thời với những gì mà con người thời đó vừa đánh mất. Và do chỗ đây chỉ là sự trở về trong tâm tưởng, lại ở lĩnh vực thơ ca, cho nên cái nó hướng tới không phải là một nông thôn có thực mà là một nông thôn trong hoài niệm, một nông thôn đã được lý tưởng hóa ít nhiều. Hơn thế nữa, đồng thời với sự trở về trong không gian còn có sự đi ngược thời gian, để tìm tới tận cái nông thôn thanh bình thời xưa. Trước mắt chúng ta, xảy ra một quá trình hoài niệm song đôi, hoài niệm kép, nên tự nhiên là nó nối tiếp miên man, không biết đến đâu là dứt.
Cuộc sống thanh bình êm ả
Trước tiên, cái cuộc sống nông thôn mà những vần thơ Nguyễn Bính đưa người ta trở lại là một cuộc sống hài hòa, êm đẹp. Trời đất thiên nhiên yên lành, thanh sạch, còn con người thì bình thản mà sống, tự tin mà sống. Công việc, người ta tự nguyện nhận làm. Bổn phận, người ta sẵn sàng gánh vác. Và ai nấy dường như đều luôn luôn biết tìm ra trong nhịp sống hàng ngày những niềm vui, những điều tốt đẹp. Và con người lao động ở đây không có cái vẻ lam lũ nhọc nhằn, ngược lại ở họ luôn luôn toát lên vẻ đẹp, cùng sự ý nhị, duyên dáng.
Nhà tôi có một vườn dâu
Có giàn đỗ ván có ao cấy cần
Hoa đỗ vẫn nở mùa xuân
Lứa dâu tháng tháng lứa cần năm năm
Ngoài cuộc sống hàng ngày, ở con người nông thôn (xin nhắc lại đây là hình ảnh con người nông thôn qua sự lý tưởng hóa của cả kẻ ở lại làng quê lẫn kẻ xa quê) lại không thiếu những phút thăng hoa cao đẹp. Đó là tình yêu của họ với làng xóm, những xúc động thuần phác trong quan hệ của họ với tự nhiên, mà nảy nở đầy đặn nhất là vào những ngày hội hè, đình đám. Hoặc mở ra giữa những đêm trời cao gió cả, trăng như ban ngày hoặc khai trương mùa diễn vào những ngày xuân mưa bụi, hội hè thường khi là những dịp để con người thoát ra khỏi bao lo buồn hằng ngày, mà yên tâm sống, sống thật hồn nhiên, thật cởi mở với mọi tình cảm có thật trong mình. Nói chung, trong tâm thức con người nông thôn thì cuộc sống bao giờ cũng vận động theo vòng quay đều đặn của tự nhiên. Sẽ không có thay đổi gì thật lớn! Cũng không có những tai họa bất thường đổ sụp xuống đầu người ta!
Sự ưu thắng của những giá trị tinh thần
Một khía cạnh khác làm nên sắc thái riêng của cái nông thôn lý tưởng Nguyễn Bính đưa ta trở lại: ấy là nếp sống đậm chất Nho giáo. Đây không phải thứ đạo Nho trung hiếu tiết nghĩa hà khắc của người có học, mà là một ít quy định, một ít giả thiết, một ít niềm tin... về một cuộc sống lý tưởng mà người ta noi theo, nó khiến cho những sinh hoạt hàng ngày được chiếu rọi một ánh sáng mới, có thêm những nét trau chuốt hơn, tinh tế hơn mà đôi khi cũng rạng rỡ hơn. Xã hội trong thơ Nguyễn Bính là một xã hội có sự phân công rõ rệt: nếu người phụ nữ tượng trưng cho cuộc sống cần cù, chăm chỉ, và cả những khao khát tốt đẹp, thì những người đàn ông chính là kẻ thực hiện những khao khát đó. Bao nhiêu công phu bỏ ra, những người mẹ, người chị, người vợ cũng không ngại, miễn sao các anh học trò yên tâm dùi mài kinh sử. Họ - đám học trò dài lưng tốn vải - sẽ phải học hành trong sự thúc đẩy ngấm ngầm của những người thân ấy. Và họ sẽ phải đi thi để những mơ ước dai dẳng kia có ngày trở thành sự thực. Hầu như bất cứ bài thơ nào của Nguyễn Bính mà có chút hơi hướng liên quan tới sự lập nghiệp trong tương lai, đều có nhắc đến chữ trạng. Anh lái đò mơ đỗ trạng, cô gái chăn tằm ước ao chồng mình có ngày thành trạng, cho đến các cô gái tước đay dệt võng thì cũng chỉ chăm chăm có một điều là đay này dệt võng để các ông trạng vinh qui. Khoảng cách tưởng là xa vời - từ cái ngày thường hàn vi, đến một ông trạng hay chữ nhất nước - hóa ra lại rất gần gũi trong tâm khảm mọi người đến mức tưởng như ai cũng có thể trở thành trạng được, nếu như chăm chỉ, cần cù, và có... một người vợ hiền thúc đẩy. Lạ một điều là cái sự đỗ trạng ở đây không đi kèm với tiền bạc, hay quyền bính, hay sự hưởng thụ. Nó chỉ là một thứ tiếng thơm, và cả người nhận, lẫn chung quanh, đều lấy làm đủ mà không thắc thỏm gì thêm. Từ khía cạnh này mà xét, phải nhận cái thế giới hôm qua Nguyễn Bính ca tụng là một thế giới cao thượng. ở đó, cái chiếm vị trí ưu thắng không phải là vật chất, mà là tinh thần.
Văn chương như một cách thế vượt lên đau khổ
Không chỉ Nguyễn Bính, thật ra trong văn học tiền chiến có cả một mạch văn đi vào nuối tiếc và luôn luôn hoài niệm cái không khí thanh đạm của thời quá khứ. Nguyễn Nhược Pháp có Ngày xưa, Vũ Đình Liên có Ông đồ, Lưu Trọng Lư gợi lại một thời đã mất trong Khói lam chiều, trong Chiếc cáng xanh. Đến cả Xuân Diệu "tây" là thế, mới mẻ là thế, mà cũng sớm quay về sống lại không khí cổ xưa qua những phác họa đời sống tinh thần lúc ấy:
Bên cửa ngừng kim thêu bức gấm
Hây hây thục nữ mắt như thuyền
Gió thu hoa cúc vàng lưng dậu
Sắc mạnh huy hoàng áo trạng nguyên.
Dẫu sao, phải nhận rằng so với mọi người thì niềm hoài vọng này ở Nguyễn Bính vừa dai dẳng, lại vừa tự nhiên hơn.
Tại sao lại như vậy? Chẳng những nhiều lần dông dài với Nguyễn Bính trong những chuyến giang hồ vặt kiếm ăn, Tô Hoài còn đã có dịp trở lại với làng quê Nguyễn Bính nữa. Và đây, dưới con mắt Tô Hoài, mảnh đất chôn nhau cắt rốn của tác giả Lỡ bước sang ngang hiện lên với vẻ trần trụi vốn có:
Làng Thiện Vinh thật có giữa vùng chiêm khê mùa thối đất Nam Định, Thái Bình. Đâu đâu cũng xơ xác. Nước trắng đồng, gió lùa sóng đồng cồn lên, quần lại, lật thuyền mảng, cả đến người ra cứu lúa cũng chết đuối. Mỗi năm mất mùa, biết bao người đã bỏ làng đi tha phương.
(Lời giới thiệu Tuyển tập Nguyễn Bính, 1986)
Sau khi cực tả như thế, Tô Hoài đi vào cắt nghĩa: tại sao trên cái thực đến se lòng đó, lại nảy sinh thơ Nguyễn Bính:
Từ những dằn vặt, những mơ tưởng nhỏ nhoi đọng lại. Mùa này mất trắng lại mong cho đến mùa sau lại được thấy mặt hạt thóc. Cái củi rều trôi qua ngoài sông, không vớt được cũng tiếc. Vợ chồng cãi nhau, người vợ ôm mặt than thở: "Giá như ngày ấy theo cái người dưới Đông thì chẳng đến nỗi nào, khổ cái thân tôi...". Hoa xoan và mưa bay giữa hội chèo làng Đặng đã sinh ra từ những như thế. Người ta than thân trách phận, nhớ tiếc, ước ao, ở giữa làng mà tưởng ra quê mình tận đâu đâu kia.
Với tư duy sắc sảo của người viết văn xuôi, Tô Hoài thật đã chạm tới một vấn đề lớn của các sáng tác văn chương trong quá khứ. Chúng ta đều biết tuy cái tình cảnh vùng đất đồng chiêm trũng nói ở đây, là riêng của quê hương Nguyễn Bính, song nhìn rộng ra, nó là nét phổ biến trong xã hội trung đại Việt Nam, và kéo dài cho tới đầu thế kỷ này. Khắp đồng bằng Bắc bộ, do nơi quan hệ sản xuất không hợp lý, và kỹ thuật canh tác cổ lỗ, ngay cả những nơi đồng đất mỡ màu, thiên nhiên ưu đãi, đâu đâu cũng là một đời sống khó khăn, xã hội thì im lìm bất động, sự trì trệ kéo dài đến mức trở thành một ám ảnh, và người ta không thể nghĩ được điều gì tốt đẹp, ngoài cái cảm giác chung rằng cuộc đời mãi mãi là thế này, không thể thay đổi. Và để tự vệ, để tìm thấy niềm vui sống, người ta phải dựng tạo cho mình một cõi tâm linh riêng, đó là cái thế giới mộng mơ với bao điều tốt đẹp. Bởi lẽ, niềm mơ ước ấy là của chung mọi người, nên nó dễ dàng lan tỏa, nó được hầu như mọi người chia sẻ. Như thuật ngữ bây giờ hay nói, rồi từ cái đời sống bế tắc đó, một huyền thoại được hình thành, huyền thoại về một cuộc sống hài hòa êm đẹp, có chỗ cho tất cả mọi người. Không ít sáng tác dân gian - một kho tàng nghệ thuật phong phú ở đồng bằng Bắc bộ - đã nảy sinh trên cơ sở huyền thoại dai dẳng kia. Nó trở thành một bộ phận của đời sống người ta, vỗ về an ủi người ta. Và nó lưu truyền qua nhiều thế hệ. Đến lượt mình, các sáng tác của Nguyễn Bính chính là bước tiếp nối cái mạch của người đi trước và nâng nó đến độ hoàn chỉnh, tức tạo ra cho nó một vẻ đẹp vốn chỉ có ở các vần thơ dân gian ưu tú nhất.
SỐ TRUY CẬP online