Thạch Lam

Vài nét tiểu sử
Thạch Lam tên thật là Nguyễn Tường Lân (1910-1942), thành viên Tự lực văn đoàn. Tác phẩm chính: Gió đầu mùa (1937), Nắng trong vườn (1930), Sợi tóc (1942), v.v...

Về với cội nguồn từ văn hóa

Hình như chỉ ngày hôm nay, những trang viết gắn liền với đời sống thanh bình của Thạch Lam mới hiện ra với đầy đủ ý nghĩa của nó.
Một trong những đoạn văn hay nhất của Thạch Lam là đoạn viết về cốm, in trong Hà Nội băm sáu phố phường.
..."Cơn gió mùa hạ lướt qua vùng sen trên hồ nhuần thấm cái hương thơm của lá, như báo trước mùa về của một thứ quà thanh nhã và tinh khiết. Các bạn có ngửi thấy, khi đi qua những cánh đồng xanh, mà hạt thóc nếp đầu tiên làm trĩu thân lúa còn tươi, ngửi thấy cái mùi thơm mát của bông lúa non không? Trong cái vỏ xanh kia, có một giọt sữa trắng thơm, phảng phất hương vị ngàn hoa cỏ".
Điều kỳ lạ của mấy câu văn ấy là ở cái không khí mà chúng tạo ra, mỗi lần đọc lại, một cảm xúc thanh sạch được khơi dậy. Ta mang máng nhận ra ở đó, có những liên tưởng tốt đẹp tới nhân dân, xứ sở, đến mức, đến mức... ta quên mất rằng, thực ra chúng được viết bằng một thứ ngữ pháp không thật thuần Việt, sản phẩm của một người đọc nhiều sách vở Pháp và có thể nghĩ bằng tiếng Pháp. Nhưng rồi nhiều người vẫn đối xử với đoạn văn viết về cốm ấy với nhiều ưu ái, thông cảm. ấy cũng là cái thái độ mà người ta dành cho toàn bộ sản phẩm của Thạch Lam, bởi lẽ biết rằng ở thời của mình, đó là một ngòi bút có sự kết hợp nhuần nhị cả tinh hoa của văn hóa Đông - Tây và luôn luôn mang lại cho sự sáng tác một vẻ đẹp cao quý.

Từ tây sang đông tìm về truyền thống, tìm về dân tộc
Tuy chính thức có chân trong Tự Lực văn đoàn, nhưng sự xuất hiện của Thạch Lam, có phần muộn mằn hơn so với mấy người cùng nhóm. Mãi 1937, Gió đầu mùa, tập truyện ngắn đầu tay của ông mới ra đời. Với tư cách là tác giả của những Hồn bướm mơ tiên, Đoạn tuyệt, Đời mưa gió, Nửa chừng xuân, bấy giờ, cả Nhất Linh lẫn Khái Hưng đều đã tìm được chỗ đứng của mình trên văn đàn. "Làm cho người ta biết rằng đạo Khổng không hợp thời nữa" - "Đem phương pháp khoa học áp dụng vào văn chương Việt Nam" - "Lúc nào cũng mới, trẻ, yêu đời, có chí phấn đấu và tin ở sự tiến bộ" - là những điều chính ghi trong tôn chỉ của nhóm Tự Lực. Có điều phải nhận trong khi thực thi công việc... mấy yếu nhân của nhóm đôi khi cũng làm nhiều chuyện quá ồn. Đọc Nhất Linh và Khái Hưng, sau cái mừng vì người mình có thể bắt kịp thời đại, sống và cảm nhận hết những khía cạnh tốt đẹp của văn hóa phương Tây, một vài người đương thời thuộc loại ưu thời mẫn thế không khỏi phấp phỏng lo ngại, không khéo cứ cái đà ấy mà kéo rồi xã hội ta đánh mất luôn chính mình, và trở thành bản sao của nền văn hóa phương Tây, dẫu sao cũng còn xa lạ.
Đặt vào hoàn cảnh ấy, mới thấy Thạch Lam xuất hiện như một nối tiếp hợp lý. Ông đã kịp đến để gặt hái những gì những người đi trước gieo cấy.
Về nhiều phương diện, ngòi bút viết nên những Gió đầu mùa, Sợi tóc... vẫn là đi từ văn hóa phương Tây mà trưởng thành lên. Người ta bắt gặp điều ấy qua những chi tiết làm nên tiểu sử đời ông, nền giáo dục mà ông chịu ơn, những câu văn còn phảng phất hơi Tây mà ông sẽ viết, những quyển sách, tờ báo đương thời từ bên Pháp gửi sang, mà ông thường nhắc tới, khi viết các bài báo nhỏ cho tờ Ngày nay. Nhưng sâu sắc hơn thế, Thạch Lam vừa tiếp nhận cái sáng sủa mạch lạc rất tiêu biểu cho văn chương Pháp, vừa thấm nhuần chất duy lý trong triết học Pháp. óc phê phán thường trực nơi ông, nó có mặt cả trong sáng tác lẫn những bài viết về nghề văn, sau này tập hợp lại trong tập Theo dòng. Người ta thường chỉ bảo nhau Thạch Lam là một ngòi bút tinh tế, mà quên rằng trong các tiểu luận, ông thường cũng hiện ra như một ngòi bút có những kiến giải tự chủ và rất nghiêm khắc. Những nhận xét của ông (đại loại: "Chúng ta có cái đời sống bên trong rất nghèo nàn và bạc nhược", "Những phong trào ở nước ta, bất cứ phong trào gì, đều có một tính chung: là nông nổi, chỉ hời hợt bề ngoài. Cái mà chúng ta thiếu nhất là sâu sắc"...) đối với tương lai, vẫn có ý nghĩa một sự cảnh tỉnh.
Có điều, không chỉ so với các nhà văn thuộc Tự lực văn đoàn, mà trong cả "dàn nhạc" tiền chiến, Thạch Lam vẫn là người có khuôn mặt phương Đông rõ ràng và khả ái hơn cả. Trong cái thủ thỉ thân tình của giọng điệu, cái đạm bạc đơn sơ của đường nét, chất liệu làm nên tác phẩm, những ngụ ý theo kiểu "ý tại ngôn ngoại" bàng bạc khắp nơi, Thạch Lam tự trình diện với một phong thái giàu chất hàm súc, kín đáo, mà ở phía trời Tây, các nhà văn thường ao ước. Trên con đường tìm lại ảnh hưởng của thơ Đường, của ca dao, trong việc bấu víu vào những chất liệu thuần Việt, kiểu như Hoa bưởi thơm rồi đêm đã khuya (Xuân Diệu), Sóng gợn tràng giang buồn điệp điệp (Huy Cận), các nhà Thơ mới thấy ở Thạch Lam một người đồng hành đáng tin cậy, mà cũng đầy thách thức. Với Thạch Lam, hình như lẽ sống của văn chương không gì khác hơn những quan tâm đến cuộc sống quanh mình, những băn khoăn về bản sắc dân tộc, mà tự mình đặt ra, rồi lại tự mình tìm cách giải đáp. Từ Nhà mẹ Lê tới Hai đứa trẻ, từ Gió lạnh đầu mùa qua Cô hàng xén, một mô-típ được ông trở đi trở lại, là cái chất mòn mỏi, bình lặng ở cuộc sống đương thời. Trong khi nắm bắt cái hồn của thực tại chung quanh, ông không quên mang lại cho nó một chiều dày lịch sử, biết nhận ra từ đức hy sinh, vẻ tận tụy trong cuộc sống hôm nay cái hương vị của ngàn xưa. Rút cục thì với những người như Thạch Lam, văn hóa Tây phương không phải là cái đích. Từ những bậc thầy của văn hóa Tây phương ông sớm nhận ra những cái gật đầu đồng tình, khuyến khích: các anh phải giữ lấy chất phương Đông của các anh! Các anh phải đến với chính dân tộc, với mảnh đất dưới chân các anh! Đó mới là công việc phải làm của người trí thức chân chính! Thạch Lam là một trong những ngòi bút tiên khu trong cái tiến trình văn hóa mà sau này một ngòi bút của nhóm Thanh Nghị là Đinh Gia Trinh sẽ phác họa: "Cuộc phục hưng ở xứ ta khởi đầu bằng một sự lựa chọn ôn tồn ở hai nền văn minh á đông truyền thống và văn minh Tây phương mới nhập tịch (thời kỳ báo Nam phong), rồi nó đã đột ngột tới sự khinh miệt cái di sản tinh thần của nước nhà, sự ca tụng quá đáng và thiết tha những cái gì Âu Tây mang lại (thời kỳ Phong hóa, Ngày nay). Nay thái độ bồng bột ấy thay đổi và bọn trí thức đã trở lại tôn trọng những di sản của đất nước, những tinh túy của văn minh á đông, trong khi tin tưởng càng mạnh là phải học nhiều của Tây phương để đi tới sự thành công trong việc xây dựng một nền tư tưởng và một nền nghệ thuật Việt Nam xứng đáng".

ý niệm về kẻ khác
Trong số vài chục thiên truyện Thạch Lam đã viết, có một tác phẩm đứng riêng ra một góc, đó là trường hợp truyện ngắn Người đầm. ở đấy, nhà văn kể chuyện một người đàn bà Pháp cũng buồn, cũng lặng lẽ, trầm mặc, và rất cô đơn giữa mọi người, như nhiều nhân vật người Việt mà ông vẫn miêu tả. Thông thường người ta xem thiên truyện này là một cái gì lạc lõng so với mọi thứ được viết dưới tay Thạch Lam. Bị những ám ảnh thời sự chi phối, lại có người cho rằng đấy là một trong số ít ỏi những trường hợp nhà văn bộc lộ lòng căm ghét thực dân, và chứng tỏ vai trò chủ nhân của mình. Song, có lẽ là hợp lý hơn, nếu đặt Người đầm vào cái mạch hòa nhập văn hóa Đông Tây mà chúng ta đang nói. Cuộc gặp gỡ bi thảm giữa hai dân tộc Pháp - Việt đã dẫn đến chế độ thực dân được xác lập ở Việt Nam cuối thế kỷ XIX để rồi trở nên nguồn gốc những ác cảm khôn nguôi mà mỗi người chúng ta chôn chặt trong lòng, khi nghĩ về người Pháp. Nhưng bên cạnh chính trị, giữa các dân tộc còn có mối quan hệ văn hóa, ở đó hai bên xâm nhập vào nhau và để lại những hệ lụy kỳ lạ trong cả cộng đồng lẫn trong mỗi cá nhân. Những điều mà giờ đây, những bộ phim Pháp như Người tình, Điện Biên Phủ, Đông Dương đề cập tới là điều mà một trí thức như Thạch Lam đã thấp thoáng cảm thấy. Sự chín chắn về văn hóa (như được phác họa trong các phần trên) đã mang lại cho ông cái nhìn chừng mực trước mọi chuyện, và lòng dũng cảm vượt qua mọi mặc cảm cố hữu kể cả những mặc cảm khó vượt nhất. Đến lượt mình, sự chín chắn này lại đánh dấu một sự trưởng thành chung của cả xã hội. Về phương diện triết học mà xét, người ta bảo một chủ thể chỉ được coi là trưởng thành khi có được ý niệm chính xác về kẻ khác, và trước tiên là thấy trong kẻ khác đó những nét tương đồng với hình ảnh phóng chiếu của chính mình.


Mối thiện cảm kín đáo

Truyện ngắn Người đầm đã được Thạch Lam hoàn thiện như thế nào để diễn tả một cách tinh tế nhất mối liên hệ tinh thần của chúng ta với những người vừa xa lạ vừa gần gũi: người Pháp?
Người đầm là một truyện ngắn của Thạch Lam, vốn in lần đầu trên báo Ngày nay (1937), sau in lại ở tập Nắng trong vườn (1938).
Nội dung Người đầm có thể tóm tắt như sau: Một lần, tác giả tới xem chiếu bóng ở rạp Pathé (trông ra Hồ Gươm; sau đổi là rạp Hòa Bình, nay thành Nhà hát múa rối), ở đó, ông gặp một người đầm, cùng đi xem với con gái. Có cái lạ là hai mẹ con người này chỉ ngồi ở ghế hạng nhì, chỗ vẫn thường dành cho người bản xứ. Chẳng những thế, ở bà toát ra vẻ khiêm nhường nhũn nhặn, "cái nhìn của bà rụt rè e lệ quá, khiến tôi ái ngại và cảm động". Giờ nghỉ, ra ngoài, bà mua kẹo cho con, vẻ rất thân thiện với chú bé bán kẹo, nhất là khi thấy chú chạy vội đi vì sợ cảnh sát, thì bà buồn hẳn.
Cũng như nhiều truyện ngắn khác của Thạch Lam, Người đầm kết thúc bằng cái cảnh ngoài trời "mưa bụi và gió lạnh", còn hai mẹ con người đàn bà "lủi thủi đi trên con đường vắng" ra về. Từ đó, tác giả - nhân vật xưng tôi trong truyện - không gặp lại bà nữa.
Người chủ hiểu biết, độ lượng và cái nhìn hợp lý về kẻ xa lạ
Mấy thế kỷ đã qua, kể từ khi hai dân tộc Pháp-Việt có dịp tiếp xúc với nhau. Trong tâm thức người Pháp, người Việt thường hiện lên với những đường nét thế nào? Những hình ảnh này đã thay đổi ra sao theo thời gian? Bấy nhiêu câu hỏi lẽ ra phải sớm được đặt ra, và tìm lời giải đáp, qua các tác phẩm văn chương (cố nhiên là loại viết bằng tiếng Pháp), bởi gạt sang một bên những cái nhìn thực dân, có thể tin chắc là trong chừng ấy thời gian tiếp xúc, tâm hồn Pháp đã là một tấm gương tốt để người Việt tới soi mà nhận ra bóng dáng bản thân.
Tiếc thay, vì quá bận bịu, ở ta chưa ai ngó ngàng tới chuyện này cả.
Tình hình cũng chả khả quan gì hơn khi nhìn vào phần viết ngược lại, tức câu chuyện "bóng dáng người Pháp trong tâm thức người Việt". Đại khái, chỉ biết rằng trong phần lớn trường hợp, người Pháp thường được phác họa như những kẻ lố lắng, thô lỗ, kỳ cục. Thơ Tú Xương tả cảnh thi cử: Trên ghế bà đầm ngoi đít vịt - Dưới sân ông cử ngẩng đầu rồng; bài văn tế Francis Garnier, tương truyền là của Nguyễn Khuyến: Mắt ông xanh lè - Mũi ông thò lõ - Tay ông cầm cờ - Miệng ông huýt chó - Nhà ông bày toàn những chai, - Vườn ông trồng toàn những cỏ. Cho đến giai đoạn xã hội Việt Nam trở nên ổn định và có phần thịnh trị, như từ sau 1932 trở đi, thì trong một đôi phen xuất hiện, hình ảnh này cũng chưa phải đã được cải thiện khá hơn. Nhân vật công sứ trong Giông tố của Vũ Trọng Phụng chỉ là một sơ đồ thiếu sức thuyết phục. Trong khi đó, ở những truyện ngắn của Nguyễn Công Hoan như Tôi cũng không hiểu tại làm sao, Lại chuyện con mèo, mấy ông Tây "sơ-vin" lại hiện ra chẳng có gì là gây được thiện cảm, người này tàn nhẫn lạ lùng, người kia ngẩn ngơ máy móc trong cách nghĩ, cách sống.
Đặt trong khung cảnh này mà xét, thì với Người đầm, Thạch Lam đã bộc lộ một cái nhìn và thái độ khác hẳn. Tư thế của nhân vật xưng tôi ở đây, là tư thế một người chủ lịch lãm, đại lượng. Ông không giấu rằng, ông có những tình cảm tốt đẹp với dân tộc Pháp, vừa muốn thân thiện với họ, vừa muốn hiểu biết họ. Và sự thực là ông đã có một hiểu biết đến nơi đến chốn về dân tộc ấy, đến mức, chỉ hình ảnh một người đàn bà thôi cũng đủ gợi nên trong ông hàng loạt liên tưởng "Tôi hiểu cái buồn và cái lạnh lẽo của bà, lúc này có lẽ đang mơ màng nghĩ đến quê hương ở tận bên kia, cái làng nhỏ ở sườn đồi, cái chuông nhà thơ cao trên bụi cây, cánh đồng cỏ, mấy con bò đủng đỉnh, bên cái suối trong mà bọn chị em bạn cùng làng đang quỳ đập quần áo trên bàn giặt. Tôi đã đọc nhiều tiểu thuyết của người Pháp quá, nên có thể tưởng tượng được rõ rệt cái đời của người bên ấy". Quay trở lại với hình ảnh của người đàn bà trước mặt, lúc này ở tác giả không còn có sự phân biệt đây là người ta, kia là người Pháp nữa, mà chỉ còn duy nhất một nhân vật phụ nữ yếu đuối cần được che chở. Thạch Lam nhìn bà chẳng khác bao nhiêu so với cách ông vẫn nhìn những bà mẹ Lê, cô Tâm trong Cô hàng xén, cô Liên trong Hai đứa trẻ. "Tôi tự nhiên đem lòng thương mến người đàn bà Pháp ấy. Cái vẻ buồn rầu âm thầm của bà làm cho tôi cũng buồn lây".
Do chỗ được soi sáng từ một cái nhìn như thế, người đầm ở đây trở nên sinh động, trước tiên là có một đời sống nội tâm phong phú: nhạy cảm và biết điều; đơn độc song vẫn tế nhị; khiêm nhường cố thu mình lại, như bất cứ ai phải sống ở một nơi xa lạ, trong khi vẫn tìm cách khẳng định bản thân trước cái hoàn cảnh éo le và không có gì là dễ chịu ấy. Về mặt nhận thức mà xét, giờ đây, người đàn bà kia không còn là hiện tượng ngoại nhập lạ lùng kỳ quái, như vẫn thấy ở nhiều tác phẩm văn chương mà đã trở thành một con người bình thường, thành viên của một nhân loại thống nhất; kẻ khác đã trở thành chính ta, có nhiều cái ta trong hình ảnh kẻ khác ấy.
Vượt lên lối nhìn nhận thông thường để đi tới một tiên cảm lớn
Với bút pháp hiện thực khá nghiêm ngặt, nói đơn giản với một sự tỉnh táo vốn có, khi tả người đàn bà Pháp ngồi trong rạp chiếu bóng, Thạch Lam không quên lưu ý "Tôi nhận thấy, cũng như tôi, những người khác ngồi chung quanh tò mò nhìn vào người đầm. Nhưng họ nhìn một cách sống sượng và chăm chú quá; trong những con mắt đó, đôi khi lại còn thoáng qua một tia lãnh đạm và ác cảm nữa". ở một đoạn sau, tác giả láy lại: "Một vẻ buồn lặng lẽ và trầm mặc phảng phất trên nét mặt người đàn bà đó. Thỉnh thoảng bà ôm lấy con ghì chặt vào lòng, như se lại, trước cái ác cảm bà đoán thấy ở chung quanh".
Hóa ra, không phải cái nhìn của Thạch Lam là cái nhìn chung của mọi người về người đầm. Mà ngược lại, bởi biết rằng cái cách nhìn nhận của mình còn đang là xa lạ, nói đúng ra, vượt lên cao hơn hẳn với chung quanh, nhà văn cảm thấy như được một sự kích thích thú vị và càng hào hứng theo đuổi những suy nghĩ riêng tư. Rút cục, chúng ta có một thiên truyện nó như chứng tích cho sự trưởng thành của ý thức cộng đồng: sau giai đoạn thù hận, đến giai đoạn chấp nhận người Pháp, bởi biết rằng, trong khi mang tới nhiều đau đớn và bất hạnh thì đồng thời họ cũng là cái cầu nối để chúng ta đến với thế giới hiện đại, và nhiều người trong họ vẫn là những người đáng mến.
Cần nói thêm rằng: không phải ngay từ đầu nhà văn đã dám đi đến cùng trên con đường được ông lựa chọn. Trong bản in trên báo Ngày nay 1937, thiên truyện có một kết cục hơi khác với văn bản ngày nay chúng ta vẫn đọc: mấy tháng sau buổi xem chiếu bóng ở rạp Pathé, tác giả có dịp gặp lại người đàn bà kia, thì bà đã thực sự bị hoàn cảnh làm cho xấu đi. Trong cung cách của một người Pháp nói tiếng Việt đã hơi sõi, bà quát mắng một người ăn mày "Xin cái gì nữa, đồ bú dù", còn cô bé con cũng "níu lấy áo mẹ, giơ chân đá về phía những đứa trẻ khốn nạn kia, mồm mắng câu mà cô đã học được của anh bồi: "Cút, con khỉ". Tóm lại người đầm hôm nào đã có đủ những thói xấu của đám người Pháp sống lâu ở Đông Dương. Có lẽ là do căn cứ vào bản in báo này, mà Nguyễn Tuân, trong bài viết nổi tiếng về Thạch Lam in ra năm 1957, đã hạ những câu bình phẩm "Trong cái tấm lòng quê hương mát mẻ của Thạch Lam, đôi lúc vẩn lên cái bóng dáng một vài con người thực dân Pháp, cái bóng dáng của một Người đầm (...). Qua cái hơi văn càng bình thản bề ngoài ấy, ta thấy thực dân cái (cũng như thực dân đực) càng trở nên kệch cỡm, nó dị dạng tới cái mức phải cho nó cút đi khỏi cái chân trời chung của cả tác giả lẫn độc giả".
Nghĩa là, theo Nguyễn Tuân người đầm nói ở đây là đồng nhất ngay từ đầu, đồng nhất hoàn toàn, với hình ảnh một kẻ thực dân.
ở chỗ này, người đọc hậu thế lại có dịp chứng kiến ngòi bút Thạch Lam tinh tế và tác giả đã cẩn trọng với trang sách của mình đến là ngần nào. Nếu chỉ giữ lại như văn bản đã in báo thì suy cho cùng, cái nhìn của Thạch Lam về mối quan hệ giữa con người và hoàn cảnh vẫn có nét gì đó hao hao như cái nhìn của những Vũ Trọng Phụng, Nguyễn Công Hoan và nhiều người đương thời.
Có lẽ vì sớm cảm thấy điều đó, nên khi đưa Người đầm vào tập Nắng trong vườn, Thạch Lam đã làm một cuộc thay đổi căn bản. Đoạn văn diễn tả cái cảnh gặp lại lần sau bị tước bỏ hẳn. Thay vào đó, chỉ là mấy câu buông lửng, "Từ đó, tôi không bao giờ được gặp bà ta nữa", nghĩa là nhà văn không muốn nhìn nhận cái việc người đầm bị "làm hỏng". Vẫn trân trọng lưu giữ "hình ảnh dịu dàng của người đàn bà đó", tác giả kết thúc truyện ngắn bằng một ý nghĩ giản dị và đôn hậu. "Bây giờ chắc bà ta có công việc làm rồi". So với bản in báo, thì bản in sách có mất đi một chút sắc sảo trong cách nhìn nhận nhân tình thế thái, song nghĩ kỹ, nó lại trung thành với chính Thạch Lam hơn, nó trở nên nhất quán trong cái ấn tượng mà nhà văn này khác với tất cả những người khác, muốn để lại trong tâm hồn bạn đọc. Với văn bản hiện nay, người đọc cảm thấy càng âm vang lên niềm ao ước của Thạch Lam, có lẽ nó đã là lý do chính thôi thúc ông viết Người đầm:
"Tôi mơ màng ao ước người Pháp nào cũng tốt như bà; chúng ta sẽ yêu mến nước Pháp đẹp đẽ và rộng lượng kia bao nhiêu, và hai giống người khác nhau trên mảnh đất này sẽ hiểu biết nhau, coi nhau thân như anh em một nhà".
Sau những tháng năm trở đi trở lại trong tâm trí nhiều thế hệ bạn đọc, càng về sau, Người đầm của Thạch Lam càng hiện ra như bằng chứng của một tấm lòng độ lượng, một cái nhìn về con người mang dấu ấn của văn hóa, mà cũng là một tiên cảm lớn.
SỐ TRUY CẬP online